CHIẾN TRANH – THÂN PHẬN – TÌNH YÊU
Dù muốn hay không, chúng ta sinh ra đều mang DNA của thế hệ. Không ai được phép chọn lựa cha mẹ, mầu da, và quê hương! Thế hệ chúng tôi, chào đời trong chiến tranh, tuổi thơ bố mẹ đã phải bỏ nhà, bỏ cửa từ Bắc vào Nam. Em còn nằm trong bụng mẹ, khi gia đình băng ruộng, lội sông trốn chạy cộng sản, đi tìm tự do nơi Miền Nam thanh bình. Đau thương như thế, làm sao những thế hệ trẻ sinh sau cảm nhận được? Đừng mang kiến thức nhà trường ra tranh luận với kinh nghiệm sống, nếu ai đó còn chút thông minh.
Cũng đừng lên mặt chê bai, hãy để tâm hồn lắng đọng, qua bài tâm ca của Nhạc sĩ Phạm Duy “Đời sinh tôi ra tôi ra như thế ! Ðời sinh tôi ra tôi ra như thế ! Thương tôi thương tôi cho sống say mê. Không thương không thương xin giết tôi đi!” Tôi không đồng ý với nếp sống quá phóng túng không thể chấp nhận của Phạm Duy, cũng không ngửi được quan niệm chính trị đầu hàng cộng sản của ông. Nhưng làm sao phủ nhận thiên tài âm nhạc, phù thuỷ ngôn ngữ của Phạm Duy. Chúng ta yêu văn, yêu nhạc, chẳng ai bắt mình yêu người!
Biết ngày mai ra sao? Chuẩn uý Phạm Quốc Anh, khoá 1/71 Thủ Đức (bên trái, hình trên) và Trung sĩ Tony Thạch (bên phải, hình trên) thuộc đại đội Trinh sát Trung đoàn 7, Sư
đoàn 5. Cả hai còn rất trẻ, đầy mộng mơ tuổi hai mươi. Quốc Anh tình nguyện
nhập ngũ, Tony Thạch thâm niên đơn vị còn lâu hơn tôi. Chẳng hiểu tại sao lại
chọn cái tên Tony đứng đầu, vào thập niên 70 là một điều hiếm hoi. Thạch con
nhà giầu, học trường Taberd, gia đình thừa sức lo cho một chỗ yên ổn tại Sài
Gòn, không chịu, chọn kiếp sống Trinh sát mầy mò đi từ lính lên Trung sĩ. Nhưng
si tình, thì anh chàng Tony là hạng nhất, người yêu của Thạch tên Nga, một nữ
sinh trung học tại Lái Thiêu, Bình Dương, mê Nga đến nỗi tên nàng khắp nơi,
trên nón sắt, ba lô, cám ơn Thượng Đế, Tony trở về bình an và lập gia đình cùng
Nga.
Phạm Quốc Anh kém may mắn hơn,
chỉ huy Trung đội Trinh sát tại mặt trận An Lộc 1972, khi đơn vị anh cận chiến
với quân số đông gấp nhiều lần, Phạm Quốc Anh đã can đảm xin phi cơ trực tiếp
thả bom lên đầu, không van xin, không nhắn nhủ, ngoài câu đàm thoại ngắn gọn,
qua máy truyền tin PRC 25:“95” (Trung uý Đặng Văn
Tuấn, khoá 24 Thủ Đức, Đại đội trưởng) đụ mẹ tụi Vịt con
(Việt cộng) đông lắm. Hãy ném bom ngay trên đầu chúng tôi! Chuẩn uý Anh mang DNA KBC 4372. Hai Chuẩn
uý Tân và Đệ, cũng hy sinh tại Phú Lố, hướng Tây thị xã An Lộc cùng một lúc.
Chúng tôi không biết nhiều về Đệ, vì anh mới chuyển từ tiểu đoàn qua, người
miền Trung, tương đối lớn tuổi, ít nói. Nhưng Chuẩn uý Tân thì vợ và đứa con
gái mới sinh vài tháng, lên thăm đang sống tại hậu cứ Phú Giáo. Chị đến trễ,
khi đơn vị đã ở Lộc Ninh, mất cơ hội gặp anh lần cuối, và Tân chẳng còn dịp hôn
cháu bé trước khi lên đường!
“Hãy ném bom ngay trên đầu chúng tôi!” Tuổi trẻ Việt Nam Cộng Hoà anh hùng như
thế đó, không cần đám báo chí khốn nạn tung hô. Chúng tôi sẵn sàng chết, Phạm
Quốc Anh chấp nhận ra đi. Lời cuối là tiếng chửi thề “Đụ mẹ” nói lên tất cả nỗi bất hạnh của một thế hệ
chưa bao giờ biết hoà bình! Máy bay thả bom theo yêu cầu, một số chiến binh
Trinh sát, thành tro bụi dưới sức thiêu đốt của bom. Đơn vị mất đi những đồng
đội thân yêu nhất! Một phép lạ, Phạm Quốc Anh thoát chết, bị thương, và trở
thành tù binh của cộng sản, sau này được trao trả. Thời gian tham chiến tại An
Lộc, chúng tôi nghĩ Phạm Quốc Anh đã ra đi như hai Chuẩn uý Tân và Đệ! Hình
trên bên tay phải, Chuẩn uý Phạm Quốc Anh và Nguyễn Văn Tửu tại cánh rừng Lộc
Ninh, xem bản đồ, vẽ đường rút quân về An Lộc, kịp thời bảo vệ thành phố trước
ngày cộng quân mở cuộc tấn công. Có ai biết chỉ vài tuần sau, Phạm Quốc Anh trở
thành tù binh? Người yêu của anh có khóc hết nước mắt, khi nhận hung tin từ đơn
vị, tưởng rằng anh đã ra đi?
Gần nửa thế kỷ trôi qua, hãy
trả lại niềm tự hào cho những chiến binh VNCH. Đại đội 7/5 Trinh sát có địa chỉ
thư bưu chính riêng, KBC 4372 (Khu Bưu Chính) và đó chính là DNA của hằng
trăm đồng đội đến và đi trước anh. Quân nhân VNCH ai cũng có DNA, chúng tôi nhớ
suốt đời cùng số quân riêng của mỗi người. Chuẩn uý Tân và Đệ đã ra đi không
một lời tạm biệt, đêm qua còn âm thầm cùng đơn vị, như những bóng ma, đạn lên
nòng, giữ khoảng cách đi về hướng Tây thành phố, địa danh Phú Lố, buổi sáng họ
chạm địch và không bao giờ về!
Năm 1969 khi mới ra trường, anh
tình nguyện xin vào Trinh sát 7, nhưng lúc đó đơn vị đầy đủ sĩ quan, và được
đưa ra Đại đội 11, Tiểu đoàn 3/7, Đại uý Trần Lương Tín, khoá 20 Võ bị làm Tiểu
đoàn trưởng, đóng tại Phú Hoà Đông, Bình Dương. Ba tháng sau, chính thức chuyển
về Trinh sát. Lúc đó, Trung uý Nguyễn Văn Minh, khoá 18 Thủ Đức làm Đại đội
trưởng “95”, và Thiếu uý Đặng Văn Tuấn, khoá 24 Thủ Đức, Đại đội phó “59”. Trước
năm 1972, Trung uý Minh, lên Đại úy làm Tiểu đoàn phó, và nhận được sự vụ lệnh
thuyên chuyển về Tiểu khu, ông bàn giao chức vụ, xách ba lô đón trực thăng về
Lai Khê, lấy vài ngày phép. Thương binh lúc đó quá nhiều, bãi đáp trực thăng
ngay trên Quốc lộ 13 bị pháo binh VC bắn liên tục, cho nên việc tản thương
không dễ dàng. Đại uý Nguyễn Văn Minh quyết định không lên máy bay, dành chỗ
cho thương binh. Ông quay về ngủ chung tại tuyến phòng thủ của Trinh sát 7.
Trong căn hầm chỉ huy, “Cọp” lúc đó chỉ
huy Trinh sát, thay cho Đại uý Tuấn ra làm Tiểu đoàn phó. Trong đêm Thứ năm 11 tháng 5 năm 1972 Cộng quân pháo kích như mưa sa, bão táp, 12,000 đạn pháo
binh 130 ly nã vào diện tích 4km vuông An Lộc, vốn đã hoang tàn đổ nát, không
một bức tường nào cao hơn nửa thước đứng vững. Khói, bụi và mùi thuốc súng
quyện vào nhau trở thành một thứ độc hại vô cùng. Trong căn hầm nhỏ, tụi anh
chen chúc, lớp căng võng nằm trên, người nằm dưới sàn, toàn những anh lính cả
tuần chưa tắm, mùi mồ hôi chua nồng! Có ai hút thuốc lá, Đại uý Minh chửi, “Đụ mẹ thằng
nào hút thuốc, đang ngộp thở không ra hơi, tắt thuốc không tao ném mày ra khỏi
hầm”. Điếu thuốc tắt ngay, nhưng
một giọng nói như biện minh: “Đại bàng ơi, trong này thúi quá em chịu
không nổi!” Đời lính vui như thế đó, sống
trong mùi hôi thối hay ngạt thở để chết? Khi cộng sản ngưng pháo kích, cũng là
lúc chúng tấn công, tất cả ra khỏi hầm sẵn sàng chiến đấu. Súng bắn chiến xa
M72 được các toán hai người một chia nhau án ngữ các ngã tư, đường hẻm, để
chuẩn bị đón con cái bác và đảng. Có một người không ra khỏi hầm, Đại uý Nguyễn
Văn Minh, người anh cả của đại đội, anh ra đi vì một mảnh đạn pháo, chui qua lỗ
châu mai và cắm vào sống mũi! Nếu Đại uý Minh lên trực thăng tản thương bay về
Lai Khê, anh đã không chết, người cao lớn, mạnh khoẻ, và chưa hề bị thương.
Nhưng Nguyễn Văn Minh không hèn, anh ở lại cùng đồng đội, và mang theo DNA 4372
về cõi trời. Người lính đêm qua hút thuốc bị anh la, sáng hôm sau vừa khóc vừa
đào huyệt mộ cho anh, cậu ta không quên cắm lên mộ một điếu thuốc Quân Tiếp Vụ
thay nén nhang tiễn Đại bàng về chốn bình yên! Chúng tôi, lớp đàn em, xin vĩnh
biệt Huynh trưởng.
Thế giới của anh như thế đó! Lớn
lên với thuốc lá Bastos Xanh, không phải cần sa ma tuý. Hút Bastos Xanh vàng cả
hai ngón tay kẹp thuốc, uống cà phê Thu Hương trên đường Hai Bà Trưng, đối diện
Tobia cửa hàng bán quan tài, và đọc Phạm Công Thiện “Ý thức mới trong
văn nghệ và triết học.” Bác Sáu, người bưng cà phê ở Thu Hương nhớ tên từng thằng nhóc, học làm
ông cụ, cà phê Filtre pha Rhum, ngồi nhìn từng giọt rơi xuống chút rượu Rhum
nơi đáy ly, cảm nhận cả một cuộc đời, có lẽ rồi đây sẽ đắng như giọt cà phê pha
chút ngọt mùi Rhum thơm, nhìn qua bên kia đường, những chiếc quan tài xếp ngay
hàng của Tobia, chẳng lẽ tương lai gần như thế sao? Thu Hương là hiện tại, và
Tobia tương lai gần! Rất nhiều khách hàng của Thu Hương, vài tháng trước mặt còn
búng ra sữa, ăn mặc những bộ quần áo cũ mua ở Khu Dân Sinh, những chiếc quần
Jean bạc mầu (nếu còn sạch sẽ thì lấy giấy
nhám đánh cho bạc) trông cho ra vẻ nghệ sĩ khu
Greenwich village bên New York, hay Montmartre, Paris (ảnh hưởng Phạm Công Thiện.) Tuổi trẻ ngây ngô, khờ khạo, nhưng vô
cùng đáng yêu! Chỉ cần vắng mặt một năm, bác Sáu sẽ ngạc nhiên với những bộ đồ
trận đủ mầu thay cho quần Jean cũ, cũng có khi chàng về trên đôi nạng gỗ, hoặc
cánh tay băng bó đeo trước ngực. Biết đâu đó, có người tên đã xuất hiện trên
bảng cáo phó? Chiến tranh tàn bạo đến không ngờ! Quán Thu Hương đã thay đổi
khách hàng, lớp tụi anh vắng mặt, bọn trẻ sau này thay chỗ, và khác lớp đàn anh
đi trước, chúng có bạn gái ngồi cùng! Thế là tụi anh đổi qua quán cà phê không
tên ở cuối đường Pasteur, có hai chị em bán hàng, quán trong nhà, nhỏ hơn Thu
Hương rất nhiều, nhưng ấm cúng, đặc biệt ở quán này quy tụ lại lớp tụi anh, quần
áo lính với những khuôn mặt quen nhau, cà phê, khói thuốc và hai cô chủ liêu
trai! Rất nghiêm trang, nên chẳng thấy tên nào tán tỉnh! Khách đến quán này đa
số là lính, không ồn ào, nói chuyện vừa đủ âm thanh, không làm phiền lòng bàn
bên cạnh và nghe nhạc Trịnh Công Sơn qua chiếc máy Akai, đặc biệt ít thấy sự
xuất hiện của phái nữ!
Hạnh phúc của tuổi trẻ Việt Nam
Cộng Hoà là được tự do suy nghĩ, cụ Ngô Đình Diệm hay cụ Nguyễn Văn Thiệu chẳng
ai bắt chúng anh phải tung hô, như người anh em miền Bắc từ lúc sinh ra đến
chết chỉ biết một lão Hồ. Thật là buồn nôn, bắt cả nước xúm vào ngửi một xác
chết, thi nhau khen thơm! Khi con người bắt buộc phải sống chung với rác rưởi, xú
uế, thì đất nước bị diệt vong sẽ không xa. Quay về chuyện chúng mình.
Nhật ký anh ghi, “Ngày 20
tháng 8 năm 1974, gập lại Lý và ra Nguyễn Huệ mua Hoa hồng, sau đó đưa em về
nhà bố mẹ trên đường Hồng Thập Tự. Em mới đi làm lại, sau thời gian nghỉ vì đau
thương hàn, nằm tại bệnh viện Saint Paul. Cô bé mặc áo dài, có những Hoa chuông
nhỏ, mầu hồng, còn hơi xanh, nhưng Liêu trai” Đã gần một tháng chúng mình không có dịp
nói chuyện qua điện thoại, anh bận hành quân liên tục, trong rừng thì lấy gì mà
gọi? Hình bên dưới chụp tại phòng làm việc, cô bé gọi điện thoại, mặc chiếc áo
trắng có những nhánh Hoa chuông mầu hồng, do anh mua tặng tại Thương xá Tax. Chưa
được gần em, nhưng chiếc áo anh tặng đã thay mình ôm kín em, ấm áp trong yêu
thương của “Cọp”. Tóc em dài quá vai, ước gì ngón tay anh thành lược?
Niềm vui của người chiến binh
VNCH là có một tình yêu đơm hoa kết trái trên hoang tàn đổ nát của chiến tranh.
Có một địa chỉ để gửi trái tim về sưởi ấm, em và hằng triệu thiếu nữ miền Nam
chính là địa chỉ an lành, thiên thu của tụi anh. Thật sự anh không ngờ lại có
giây phút hạnh phúc như thế? Nhà văn Nga, LeoTolstoy, nổi tiếng với tác phẩm “Chiến
tranh & Hoà Bình” (War and Peace), tuổi trẻ VNCH chỉ có “Chiến
tranh & Tình yêu” (War and Love.) Chúng ta chưa bao giờ biết Hoà bình! Thôi
thì để tình yêu ôm ấp, vỗ về cho quên đi chiến tranh! Mà đúng như thế, khi
chúng anh ngã ngựa, các người vợ lính trong đó có em đâu bao giờ bỏ chồng? Còn
tình yêu nào cao thượng hơn thế? Miền Bắc, chủ nghĩa xã hội, ngàn năm sau cũng
không thể nào có một thế hệ chung tình trong đau thương, nghèo khó, như những
phụ nữ trong Nam. Cộng sản đã thành công trong việc tha hoá nhân cách con người,
đưa về thời man di, mọi rợ!
Chiếc xe Jeep đưa em về trước
cửa! Nhà em ngay mặt đường và hàng xóm hai bên tò mò đứng nhìn! Cô bé mong manh
bước khỏi xe, với bó Hoa hồng trên tay, bên anh lính quần áo bụi bậm, súng đạn
lỉnh kỉnh làm tài xế, chiếc ghế sau của xe Jeep quay mặt nhìn ra sau, anh chàng
Lâm súng đạn rất ngầu! Lần này lại có thêm Sen, một chiến binh được bổ sung vào
Trinh sát trong mặt trận An Lộc. Sen trước đây thuộc binh chủng rất dữ dằn, cậu
ta đào ngũ, bị bắt làm Lao công Đào binh, sau đó được ân xá vào Mùa hè Đỏ lửa
1972. Chẳng phải khoe khoang gì, tụi anh đi từ mặt trận về, vội đến tìm em ngay
trước giờ tan sở. Vượt qua cõi chết để gần em, mang theo súng đạn vì vậy, người
Sài Gòn biết rõ điều đó, không ai tỏ vẻ khó chịu. Chúng ta đi mua hoa rồi về
ngay, em hỏi: Anh vào nhà chào ba mẹ nhé! Lời mời quá bất ngờ! Biết thưa thốt gì với
các cụ đây? Thật sự em cũng chưa bao giờ chuẩn bị cho màn giới thiệu này. Hay
em đã kể nhiều cho các cụ về nguồn gốc những bó Hoa hồng? Anh lúng túng, còn
hơn là ngày đầu ra trận!
Ba mẹ em rất ngạc nhiên khi gặp
anh, có phải các cụ bị choáng ngợp về tên lính râu ria, bụi đời, mà cô con gái
út nhặt ở đâu đó mang về? Hắn không phải bác sĩ, luật sư, hay con nhà giầu! Hắn
đến từ một khung trời, tên nghe thì gần nhưng lại rất xa, nơi đó họ là khách hàng
thường xuyên của những cáo phó đăng trên báo mỗi ngày ... Chừng ấy thôi liệu có
khiến ba mẹ em lo âu?
Nhưng hoàn toàn không, hai cụ
rất vui, bố quan sát anh nhiều hơn nói, mẹ hiền từ cho anh biết: Khi nào về
phép, cháu cứ lại thăm hai bác và em nó. Thật là tuyệt vời. Lòng anh vui như Tết!
Phép rất ngắn, chỉ 48 giờ, Sen
xin đi theo về thăm gia đình. Sau khi đưa anh về nhà, Lâm đưa Sen về nhà anh ta
và hẹn cả hai sẽ quay lại gặp anh vào sau giờ cơm chiều! Anh tặng hai chú em
vài ngàn đến từ tiền lương để dành của mình, gia đình Lâm ở xa, nhưng Sen cũng
nên có chút quà cho thân nhân. Một điều không thể quên, là súng đạn phải để ở
nhà ba mẹ anh, hai cậu lính mà mang vũ khí lang thang Sài Gòn rất dễ bị Quân
cảnh hốt về Quân vụ Thị trấn.
Khoảng sau giờ ăn cơm chiều,
Lâm và Sen trở lại với quần áo lính sạch sẽ, tối nay anh lại thăm em tại nhà.
Xin phép bố mẹ cho mời em đi chơi. Đâu có dễ như vậy? Mẹ nói, “Tối rồi,
anh đưa em đi bộ ra uống nước gần nhà thôi.” Được như thế là quá vui rồi, anh nào dám
đòi hơn! Từ nhà em trên đường Hồng Thập Tự, đi vài trăm thước sẽ có quán nước,
thôi thì không lên Sài Gòn vào Brodard hay Givral, thì hai đứa mình đi gần nhà.
Mải mê tay nắm tay bên nhau,
chúng mình đâu biết, Lâm ngồi giữ xe trước cửa nhà em, và Sen âm thầm đi sau.
Sen thuộc nhóm quân nhân luôn luôn bên cạnh anh khi súng nổ, nhóm lì nhất của
đại đội, bên những chiến binh như Sen anh rất yên tâm khi giao tranh, hoặc lên
tuyến đầu đối diện quân thù. Một kỷ niệm khó quên, tại nơi em ở có một chú lính
cũng thuộc binh chủng dữ dằn để ý đến em, dĩ nhiên cậu ta không thích khi thấy
hai đứa bên nhau, và tiến ra định gây sự. Cám ơn Sen, anh chàng cao trên một
thước bẩy đã nhanh chóng can thiệp. Không có đánh nhau, hay ồn ào! Sen chỉ đứng
giữa anh chàng muốn kiếm chuyện và chúng mình, nói vài câu thế là xong. Cũng
hay, vì từ đó chú em dữ dằn biết mình không có cơ may! Đưa em về nhà, giấu kín
chuyện không vui, bố mẹ yên tâm. Lâm kể: Em thấy thằng đó
muốn kiếm chuyện với “95” nên em nói Sen đi theo sau cho chắc ăn. Cám ơn những người anh em đã sống chết bên
nhau. Huynh đệ chi binh như thế đó, khi chúng anh chẳng may nằm xuống tại mặt
trận, chính những người đồng đội này sẽ sống chết tiến lên lấy xác mình, khi
một ai đó quấn tròn trong poncho, hai đầu cột chặt, cũng những chiến hữu này sẽ
khiêng thân xác bốc mùi băng rừng lội suối về hậu cứ.
Tình yêu trong chiến tranh vội
vã chạy đua với thần chết, em và anh, không ai nói ra. Nhưng trong tận cùng tâm
khảm, chúng ta biết! Quên đi những nguyên tắc cổ hủ, trên một ý nghĩa nào đó,
chúng ta cũng chẳng thua gì bọn Hippies bên trời Âu. Sống vội vàng, kẻo mai này
không còn sống! Yêu vội vàng, biết đâu ngày mai không còn bên nhau? Khác một
điều, bọn anh Hippies nhưng không trốn lính, không hút cần sa, và không ồn ào
trên báo chí quốc tế, em Hippies trong lễ giáo, yêu lính không phải là cái tội!
Ba mẹ em đã biết anh, tại sao em không xin hai cụ lên đơn vị thăm anh một lần?
Em hứa sẽ xin phép.
Cánh rừng Đông Bắc Lai Khê,
ngày 20 tháng 9 năm 1974, ba mẹ cho phép, nhưng em phải rủ một cô bạn tên Liên,
làm cùng sở hộ tống. Lâm về Sài Gòn đón Thiếu uý Tiêu Quốc Quyền đi phép lên
đơn vị, nhân dịp đó đưa em và Liên đến thăm. Chiếc xe Jeep của đại đội mang số
150-968 trở thành gạch nối giữa đôi ta. Anh còn nhớ, em mặc bộ complet mầu
xanh, chiếc áo dài tay trắng bên trong. Đơn vị đóng quân trong một khu rừng
cách căn cứ Lai Khê 2 Km về hướng Đông Bắc, xem như một hình thức dưỡng quân,
nằm tiền đồn cho Bộ chỉ huy Sư đoàn. Lần đầu tiên em thấy nơi đóng quân, những
chiếc võng rải rác, bên cạnh là hố cá nhân cùng súng đạn. Tố Quyên mời Liên về
vị trí của anh ấy, để em tự do bên anh. Buổi trưa, cả bọn ăn cơm nhà binh chung:
Gạo sấy, thịt hộp ba lát và canh chua lá giang, hai cô bé thành thị khen ngon (trong khi tụi anh ngán đến tận cổ) sau bữa ăn anh rủ em đi trên con đường
mòn gần vị trí đóng quân (hình nhỏ ở dưới, bên trái), an toàn, tuy nhiên anh phải gọi máy truyền tin cho toán Trinh sát nằm
kích xa biết, tránh ngộ nhận! Khu vực này cũng có những người dân đi làm rẫy,
nên các toán kích phải gỡ mìn Claymore khi trời sáng, tránh cho người dân khỏi
chết oan! Ngày hôm đó anh đã ngỏ lời cầu hôn cùng em, dĩ nhiên không có màn quỳ
xuống trao nhẫn như phong tục bên Mỹ, cần gì chiếc nhẫn nếu chúng ta không có
số ở bên nhau?
Anh muốn xin ba mẹ kết hôn cùng em! Lời tỏ tình đơn giản, đến từ anh chàng
“Cọp” khiến em vô cùng ngạc nhiên.
Có vội quá không anh?
Đã quá muộn rồi em yêu! Lịch thời gian của người thành phố, khác
với lịch của lính. Ngoài mặt trận, rất nhiều chiến binh không có may mắn để bóc
tờ lịch sang ngày mai!
Sao thế anh?
Anh chỉ biết nói theo cảm nhận của
trái tim mình.
Em muốn anh nói thêm đi, còn điều gì
anh chưa nói?
Trái tim anh đã cháy bỏng, nó gần
như muốn tan biến vào hư vô, hãy ấp ủ anh trong em.
Anh có thật lòng yêu em không? Em
còn quá nhỏ, chưa biết gì!
Không đâu, nói yêu chưa chắc em tin,
nhưng anh không thể sống thiếu em!
Em sợ một ngày nào đó anh sẽ bỏ em!
Chúa sẽ đưa anh về địa ngục.
Nghi lễ hỏi cưới đơn giản như
thế! Giữa cánh rừng Lai Khê, lần đầu tiên chúng ta hôn nhau. Trong nước mắt em
gật đầu, trong gió rừng anh hạnh phúc. Thú thật cùng em, anh đã trải qua nhiều
cuộc tình, nói chữ “Yêu” với nhiều cô, để rồi chia tay nhanh không kém! Từ đó, đối với anh, chữ “Yêu” con người nói ra chưa chắc đã là đúng theo
nghĩa của nó! Cả hai nói trong cảm xúc bốc đồng, hoặc tệ hơn để đạt một điều gì
đó? Với em, anh cảm nhận rõ ràng là mình không thể sống thiếu nhau, và đó chính
là điều gắn bó chúng ta 47 năm qua, sẽ đi tiếp vài chục năm nữa nếu Thượng Đế
cho phép. Qua nụ hôn, anh biết thêm đối
với em đây là lần đầu, với một anh chàng từng hôn nhiều phụ nữ, thuộc đủ mọi
thành phần, kinh nghiệm dậy anh cô nào chưa biết hôn. Khi yêu, trái tim nóng
hổi, sẵn sàng làm mọi việc để chinh phục nửa kia, nhưng rồi cũng có lúc trái
tim phải nghỉ ngơi, đó là giây phút hai người xa nhau! Lửa không còn cháy, sẽ
mau chóng tàn! Không thể sống thiếu nhau, bền vững hơn rất nhiều, nó như
con người cần dưỡng khí! 47 năm bên nhau, đã dậy anh điều này, anh không thể
vắng em vì không thể sống thiếu không khí.
Trang nhật ký rời rạc, anh may mắn tìm lại được trong đám sách báo cũ của anh Minh, lưu giữ đến mọt ăn gần hết. Sau ngày đàn bò vào thành phố 1975, gia đình nào cũng sợ hãi, đốt hết những gì liên quan đến Việt Nam Cộng Hoà. Tuy nhiên, theo trí nhớ và em cũng xác định, sau lần đầu lên thăm anh ngày 20/9/1974, em còn lên đơn vị vài lần nữa và chúng ta không nhớ ngày.
Lần thứ hai, đến thăm anh (hình trên, tay mặt) cũng trong năm 1974, khi đơn vị nằm trong
rừng sâu, chờ tiếp tế trước khi nhận nhiệm vụ mới. Một Tiểu đội Trinh sát đi hộ
tống và lĩnh tiếp tế. Lâm lại làm sứ giả tình yêu, đón em tại nhà từ sáng và
lên chỗ nhận tiếp tế trên Quốc lộ. Em phải đi theo toán Trinh sát khoảng 45
phút băng rừng, lội suối vào nơi đóng quân. Sợ không em? Nếu không có một tình
yêu chân thật, chắc không đời nào em tham dự những chuyến đi đầy nguy hiểm này!
Chạm địch, rất có thể, em bắt đầu tập làm vợ lính.
Anh kể hết cho em nghe về cuộc sống bão nổi của mình.
Những người thiếu nữ đã qua, nếu vì thế em từ chối không muốn đi tiếp, đó là ý
muốn của Thượng Đế. Nhưng vẫn chưa hết, chị Mai là điều anh không biết nói như
thế nào cùng em? Chị ấy thương cả hai đứa mình, khổ nỗi chuyện bồ bịch, trai
gái của anh quá tệ, khó mà lay chuyển ý bà chị.
Một người vợ trước, có đám cưới linh đình, chưa làm hôn
thú, và bỏ nhau một tuần sau, chỉ vì ông bố cô ta một nhà thầu khoán giầu có,
đối xử với anh thiếu tôn trọng. Cô con gái cũng mang theo DNA của bố, rất tiếc
cả hai không hợp nhau. Trong tiệc cưới, mấy ông em họ lại mời anh uống rượu, cô
dâu ngồi bên cạnh ra lệnh cho anh ngồi xuống, không được uống! Trời đất hỡi,
một thằng Đại đội trưởng Trinh sát, thử lửa 100 ngày An Lộc, bảo anh phải nghe
một cô ranh con, ra lịnh trước họ hàng trong tiệc cưới, có ngủ mơ không? DNA
4372 không khoái kiểu ra lịnh này!
Vài phút sau, anh bỏ bàn tiệc, lên tầng lầu trên của
khách sạn, ôm một cô vũ nữ quen từ trước, nhẩy như điên như cuồng. Đêm tân hôn,
cô dâu về phòng không có chú rể? Anh động phòng với cô vũ nữ mất trinh từ kiếp
nào, và sáng hôm sau hai đứa đón xe đò lên Đà Lạt. Ngang ngược như thế đó! Làm
sao dám mong chị Mai tin mình? Những ngày tháng yêu em, anh suy nghĩ rất nhiều
về việc ăn nói ra sao với bà chị và em?
Câu chuyện anh đi Đà Lạt không che dấu được, một bà cô
bên vợ ở Đà Lạt về ăn cưới, anh hoàn toàn không biết mặt bà cô này, tình cờ gặp
ngoài đường phố, bên người thiếu nữ khác, tay trong tay, thế là vài phút sau
gia đình cô vợ không may biết tin, dĩ nhiên ba mẹ anh cũng nhanh chóng được
thông báo! Thượng Đế sắp đặt cả, trên giấy tờ anh vẫn độc thân. Điều này càng
khiến chị Mai lo hơn nữa, anh vẫn chưa tìm ra giải pháp ổn thoả! Sau khi ở Đà
Lạt về, lên thẳng đơn vị, anh Minh đến tận nơi năn nỉ anh hãy cho cô ta một đứa
con, rồi muốn đi đâu thì đi! Anh không chấp nhận, nhưng vài tuần sau có về nhà
và ngủ với cô ta một vài lần, cả hai không hề cảm thấy một hứng thú nào, giữa
hai người là một bờ vực thẳm, thà chia tay còn hơn sống kéo dài thêm đau khổ!
Anh không ghét cô ấy, nhưng với bố cô ta nếu làm con rể, chắc có ngày anh bẻ răng
ông cụ về cái tội phách lối. Chia tay là đúng, để anh khỏi phạm tội.
Chi, cô vũ nữ đi Đà Lạt một tuần với anh, biết luật chơi,
cả hai cam kết không làm khó dễ nhau, xem chuyến đi như một sân ga, con tầu ghé
lại và lên đường. Gặp nhau tại vũ trường, nếu cô ta ngồi bàn với một người đàn
ông khác, anh sẽ không phá thối, và ngược lại, anh có quyền đi với bất cứ ai!
Có lẽ anh quen và thoải mái với luật rừng hoang?
“Cọp” không dễ gì sống trong một môi trường giới hạn bởi
những nguyên tắc và luật lệ, bất cứ ai có ý định nhốt vào chuồng, dù có là một
cái chuồng đẹp đẽ, sang trọng cũng sẽ vô ích. Em chưa bao giờ đòi hỏi, ràng
buộc anh, chưa hề ép anh phải đi vào con đường em muốn. Em hiền như ma soeur,
âm thầm lẳng lặng bước đi, không roi, không vọt và cứ thế bên em là “Cọp” song
hành. Trên hành trình, có những lúc “Cọp” đi theo hướng của mình, và em ngoan
ngoãn bước theo, không một lời than vãn hay buồn phiền. Số phận đã ràng buộc
chúng ta bên nhau. Hiền dịu và nhẫn nại, em đã chinh phục “Cọp.”
Những ngày cuối năm 1974, chiến tranh trở nên khốc liệt.
Quân đội Việt Nam Cộng Hoà một mặt phải đương đầu với Việt cộng tại chiến
trường với vũ khí, đạn dược được Trung cộng và Nga sô cung cấp vô giới hạn.
Trong khi đó, đồng minh Hoa Kỳ, tàn nhẫn cắt giảm mọi nguồn quân viện. Đơn vị
đi hành quân phải đếm từng viên đạn, sẽ không còn trực thăng tiếp tế giữa rừng.
Thương binh tử sĩ sẽ không có máy bay tản thương, tất cả gồng gánh nhau mang
về, đạn pháo binh chỉ có cấp Tư lệnh Sư đoàn mới có quyền cho bắn 5 quả! Quốc
hội Mỹ từ chối viện trợ $300 triệu USD quân viện! Tên Thượng nghị sĩ
Joe Biden khốn nạn tuyên bố, KHÔNG bỏ ra một USD để đón người tỵ nạn Việt Nam. Miền
Nam Việt Nam chính thức bị đồng minh Hoa Kỳ bức tử!
Làm sao người lính đối đầu với quân thù tại mặt trận lại
phải đếm từng viên đạn bắn đi? Đánh nhau với Việt cộng đâu phải phim cowboy
miền Viễn Tây? Bắn hết đạn rồi thì chắp tay đầu hàng quân thù, lạy chúng, hay
quăng súng bỏ chạy? Hình ảnh Hoa Kỳ sau Đệ nhị Thế chiến với thành tích hào
hùng xây dựng lại một nước Nhật và Châu Âu hùng cường, đã hoàn toàn đổ vỡ sau
khi nước Mỹ phản bội đồng minh VNCH và hôm nay là Afghanistan!
Từ nay trở đi, các quốc gia được Mỹ giúp phải luôn nhớ
một điều: Hoa Kỳ sẽ không thể tin được là đồng minh lâu dài! Bạn
phải nhanh chóng tự lập, tự cường, xây dựng đất nước, khi nào họ còn giúp. Và
luôn chuẩn bị tinh thần sáng mai tỉnh thức chú “Sam” đòi ly dị. Chuẩn bị sẵn
câu tạm biệt: “Fuck you! Go ahead make my day.”
Cộng sản Việt Nam hôm nay đang đi vào vết xe của Việt Nam
Cộng Hoà 47 năm trước, khác một chút là VNCH theo Mỹ, và CSVN theo Tầu. Tiên sư
bọn Ba Đình, ngu hơn bò, lịch sử một ngàn năm nô lệ Tầu chúng nó chưa mở mắt!
Theo Tầu còn chết nhanh và thê thảm hơn là theo Mỹ, chưa gì biển đảo chúng đã
lấy trọn! Người Việt trong nước, còn chút dũng khí, hãy tự hỏi tại sao các cơ
quan hành chánh của Huyện đảo Trường Sa hay Hoàng Sa lại đặt tại Đà Nẵng? Nếu
còn chút lương tâm, bạn có đau có khóc cùng cả trăm ngàn (có thể lên đến hơn một triệu) công nhân rời thành phố mang tên xác
người ùn ùn về quê mới đây?
Em của anh, chúng ta quen nhau hơn sáu tháng rồi. Với
tình hình đất nước tồi tệ như thế này, cả hai phải nhanh chóng làm đám cưới
thôi. Ở mặt trận, anh thấy rõ cán cân đang nghiêng về phía địch không phải quân
ta! Không phải bi quan, nhưng làm sao chiến thắng khi VC bắn hằng ngàn quả đại
bác vô tội vạ, trong khi quân ta chỉ đáp lễ bằng vài quả như gãi ngứa? Đạn của
csvn mang nhãn hiệu Nga Tầu, chẳng vinh dự gì hơn chúng ta, súng đạn made in
USA! Fuck, bọn chính trị gia Dân chủ Mỹ, chúng giết cả một đất nước trên bàn
tiệc tại Bắc Kinh!
Số phận chúng ta do Thượng Đế an bài! Ngài đã thu xếp để
anh biết em chỉ vì chiếc điện thoại hư tại nhà ba mẹ. Ngài soi sáng và chỉ dẫn
anh không được vội vàng, dành thời gian trồng những nhánh Hoa Hồng trên đường về
nhà em. Khi hoa đã nở hai bên đường, Ngài cho anh về đúng lúc chị Mai vắng mặt
để ra mắt em ... Tất cả có phải do Thiên Chúa sắp đặt không em?
Thế rồi một lần anh về Sài Gòn gặp em, chuyến đi cũng khá
ma mãnh, ông em họ của anh là Thiếu tá Quân pháp, Dự thẩm tại Toà án Quân sự
ngay bến Bạch Đằng, anh gọi điện thoại trước đó hai tuần nhờ Thái Vân cấp cho
vài ngày phép, thế là có một trát toà gửi lên đơn vị, yêu cầu anh trình diện.
Trung tá Đỗ Đình Vượng “44” gọi anh về Bộ chỉ huy, ông hỏi: “Mày làm ăn
gì mà để Quân pháp nó gọi hầu toà?” Anh trả lời không biết chuyện gì, thế là “44” phải cho
đi thôi. Lịnh hầu toà của Quân pháp rất oai em ạ, đơn vị không được quyền giữ
lại. Thật sự anh không muốn nhờ Thái Vân phù phép, nhưng trong tình hình dầu
sôi lửa bỏng này, không ông “44” nào lại cho Trinh sát đi phép cả! Khi anh vắng
mặt, “44” cử một sĩ quan ban 3 ra phụ trách đại đội. Rời đơn vị sáng Thứ sáu, ở
Sài Gòn hai ngày cuối tuần, Thứ hai trình diện Thiếu tá Thái Vân buổi sáng, lấy
dấu Quân pháp đóng vào giấy phép, tối Thứ hai may mắn nếu mời được em đi ăn, và
sáng Thứ ba trở về đơn vị.
Về Sài Gòn chỉ vì nhớ em, mọi việc còn lại mặc cho con
tạo xoay vần. Lúc này, anh vẫn chưa biết cách nào để giải quyết chuyện che dấu
về chị Mai và em. Sáng Thứ bẩy, trong bộ quần áo dân sự, anh đưa em đi xem phim
tại rạp Rex, chương trình là bát phố và ăn trưa trước khi về nhà. Buổi sáng,
rạp Rex cũng thưa người, cả hai mang tiếng là xem phim nhưng đố đứa nào kể được
chuyện phim! Từ Rex, băng qua đường là Thương xá Tax, anh định mời em vào Pole
Nord ngay góc đường ăn trưa.
Thật không ngờ, trong lúc hai đứa dung dăng dung dẻ, thì
gặp ngay vợ chồng anh Kỳ chị Mai đi ngược chiều! Đúng là “Sự gì
Thiên Chúa đã sắp đặt, loài người không thể phân chia” có hai người khá bối rối đó là chị Mai và
em! Có lẽ em mắc cỡ vì bị bà Trưởng phòng bắt gặp có bạn trai? Nhưng anh tin là
chị Mai còn ngạc nhiên gấp vạn lần! Anh rất bình tĩnh.
Giới thiệu cùng anh Kỳ chị Mai, đây là Lý bạn em!
Lý, chị Mai là chị ruột anh, giới thiệu cùng em.
Lúc này anh mới thấy em vô cùng ngỡ ngàng, với đôi chút
mắc cỡ. Anh mời hai vợ chồng chị Mai đi ăn trưa cùng tụi mình. Nhưng bà chị từ
chối, và nhẹ nhàng tặng anh câu nói: Thằng khỉ!
Chuyện chúng mình thật nhiều may mắn. Từ nay trở đi anh
đã trút được gánh nợ ngàn cân trên vai. Sau khi chia tay cùng hai ông bà, anh
đổi ý không vào Pole Nord, chỗ đó quá ồn ào, các cô cậu Hippies và một vài anh
lính tráng, chiếm hết chỗ. Chúng mình quay lại Continental ngay bên cạnh toà
nhà Quốc hội, nơi đây yên tĩnh hơn, bàn ghế vẫn còn phong cách Pháp, khách hàng
loại lớn tuổi và đa số là ký giả ngoại quốc, chẳng ai tò mò để ý đến mình. Anh
dành khá nhiều giờ để ráp nối câu chuyện kể lại cho em. Nghe xong, em nói: Anh ghê
thật! Không ghê như em nghĩ đâu.
Hoàn cảnh khiến anh không còn cách nào khác hơn!
Chúng ta đã ra khỏi bóng tối, và ánh sáng hiện ra trước
mặt! Tương lai xin để Thượng Đế soi đường, dẫn dắt.